Giáo trình sinh học thiếu nguyên tắc lấy người học làm trung tâm
Giáo trình khóa học đóng vai trò là bản đồ chỉ đường để định hướng học kỳ sắp tới và nội dung sẽ được giảng dạy, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng nó cũng có thể hỗ trợ việc học tập tự định hướng của học sinh.
Một nghiên cứu tháng 11 được công bố trên tạp chí Tạp chí nghiên cứu giảng dạy khoa họcđược biên soạn bởi một nhóm giảng viên từ Đại học Auburn và Đại học Alabama ở Birmingham, cho thấy rất ít giáo trình sinh học nhập môn thu hút sinh viên vào thói quen học tập hiệu quả hoặc khuyến khích các hành vi tìm kiếm trợ giúp thay vì thiên về nội dung.
Nghiên cứu nhấn mạnh các cơ hội để giải quyết chương trình giảng dạy tiềm ẩn của giáo dục đại học và hỗ trợ sự thành công cho những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn trong lịch sử.
Cần gì: Một số sinh viên đại học thiếu thói quen học tập hiệu quả và những khoảng cách này thường là mối lo ngại lớn hơn về công bằng đối với các nhóm bị thiệt thòi, làm nổi bật các cơ hội hoặc nguồn lực hạn chế dành cho các cộng đồng kém may mắn.
Đặc biệt, các khóa học cơ bản về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học thường đóng vai trò là người gác cổng, hạn chế sinh viên nào có thể theo đuổi các chương trình cấp bằng này và dẫn đến việc đạt được bằng cấp STEM ít đa dạng hơn.
Sinh viên đại học ngày nay cũng thể hiện ít khả năng sẵn sàng vào đại học hơn về kỹ năng học tập, một phần do phải giảng dạy từ xa do đại dịch COVID-19.
Thông thường, các trường cao đẳng hoặc đại học sẽ tổ chức các hoạt động can thiệp ngoại khóa như hội thảo để dạy những kỹ năng này hoặc giới thiệu các phương pháp hay nhất trong khóa học hội thảo năm thứ nhất. Mặc dù những biện pháp này có thể hiệu quả nhưng các tổ chức có thể thiếu nguồn lực hoặc thời gian để thực hiện các biện pháp can thiệp, điều mà các nhà nghiên cứu cho rằng cần có các chiến lược thay thế để tiếp cận sinh viên.
Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng việc lồng ghép hướng dẫn rõ ràng vào giáo trình để thúc đẩy ba kỹ năng—hành vi học tập, đánh giá siêu nhận thức hoặc tìm kiếm trợ giúp trong học tập—có thể ảnh hưởng đến sự thành công của học sinh.
Phương pháp: Các nhà nghiên cứu đã đánh giá 115 giáo trình sinh học nhập môn từ 94 tổ chức độc đáo, bao gồm 48% tổ chức nghiên cứu chuyên sâu, 29% tổ chức phục vụ dân tộc thiểu số, 72% công chúng và 61% với số lượng tuyển sinh trên 10.000 sinh viên.
Một cái nhìn sâu sắc hơn về giáo trình STEM
Một nghiên cứu của Viện Bách khoa Worcester cho thấy những người hướng dẫn có thể giúp tạo ra một môi trường học tập hòa nhập hơn trong các khóa học STEM thông qua việc điều chỉnh giáo trình của họ để có các yếu tố như tài liệu từ nhiều học giả khác nhau và các tuyên bố về khả năng tiếp cận. Đọc thêm ở đây.
Một giáo sư kỹ thuật tại Đại học Massachusetts ở Amherst đã thiết kế lại giáo trình của mình thành một tạp chí hoặc tạp chí thu nhỏ để thúc đẩy sự tham gia của sinh viên và xây dựng cộng đồng trong lớp học.
Giáo trình được phân loại dựa trên sự hiện diện của hành vi học tập, tìm kiếm trợ giúp học tập và gợi ý siêu nhận thức; loại gợi ý của ba yếu tố đó; và chất lượng của những khuyến nghị này (hiệu quả hoặc không hiệu quả).
Phân tích sâu hơn về giáo trình bao gồm bốn yếu tố để đánh giá mức độ lấy người học làm trung tâm, bao gồm việc có mục tiêu và mục tiêu học tập rõ ràng và phù hợp, các hoạt động đánh giá được liên kết và xác định, lịch trình khóa học được sắp xếp hợp lý và môi trường học tập tích cực và có tổ chức. Mỗi giáo trình được chấm từ 0 đến 48 điểm, với điểm số cao hơn cho thấy chúng lấy người học làm trung tâm hơn.
Những phát hiện: Trong số 115 giáo trình được đánh giá, chỉ có 14% đạt được ít nhất 31 điểm để được coi là lấy người học làm trung tâm. Khoảng 3 trong số 10 giáo trình được coi là “tập trung vào nội dung”, đạt điểm từ 16 trở xuống. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng giảng viên có thể thiếu thời gian hoặc sự quan tâm khi tạo giáo trình của riêng họ, thay vào đó dựa vào các mẫu từ tổ chức hoặc các tài liệu được tạo trước đó.
Thiết kế của Ashley Mowreader
Chỉ 3,5% giáo trình cho thấy bằng chứng về việc giảm khoảng cách cơ hội trong các khóa học STEM, mà các nhà nghiên cứu xác định là không nhấn mạnh đến các quy tắc của khóa học, khuyến khích sử dụng các nguồn lực bên ngoài để tiếp tục học tập bên ngoài lớp học và nhấn mạnh vai trò của học sinh trong việc học của chính họ.
Theo nghiên cứu, “Hầu hết giáo trình trong mẫu của chúng tôi cung cấp tài nguyên học tập nhưng tập trung chủ yếu vào các chính sách khóa học và không đề cập đến học sinh như những người học tích cực”.
Phần lớn giáo trình đã đưa ra gợi ý về hành vi học tập, siêu nhận thức hoặc cách tiếp cận để tìm kiếm trợ giúp trong học tập (61%), mặc dù phần lớn trong số này chỉ đề cập đến tìm kiếm trợ giúp (45%). Khi giáo trình chia sẻ lời khuyên để tìm kiếm sự giúp đỡ, nhiều người chỉ cung cấp danh sách các tài nguyên và ít khuyến khích học sinh sử dụng chúng hơn.
Các nhà nghiên cứu viết: “Chỉ có 17,9% giáo trình cung cấp danh sách các tài nguyên tìm kiếm trợ giúp học thuật, khuyến khích sử dụng các tài nguyên đó và giải thích về cách sử dụng các tài nguyên đó”. giáo dục đại học.
Trong số các giáo trình cung cấp các khuyến nghị về hành vi học tập của sinh viên, một số lượng đáng kể đưa ra cho sinh viên những lời khuyên vô ích hoặc những phương pháp thực hành được chia sẻ mà nghiên cứu không khẳng định được.
Các nhà nghiên cứu viết: “Chúng tôi nhận thấy rằng hầu hết các giáo trình sinh học đều ủng hộ các chiến lược học tập hiệu quả như tự kiểm tra và giãn cách”. “Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy rằng các chiến lược đề xuất theo giáo trình được mô tả là không hiệu quả cho việc học lâu dài (ví dụ: đọc lại sách giáo khoa và viết lại ghi chú).”
Hai mươi chín phần trăm giáo trình chỉ khuyến nghị những thói quen học tập hiệu quả, dựa trên bằng chứng. Tỷ lệ lớn hơn (42%) đưa ra cả các kỹ thuật hiệu quả và không hiệu quả, và 24% chỉ đưa ra các hành vi không hiệu quả.
Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng chỉ vì giáo trình thiếu chi tiết về cách nghiên cứu hoặc thực hành siêu nhận thức không có nghĩa là nó hoàn toàn vắng mặt trong lớp học, vì người hướng dẫn có thể thảo luận về các chủ đề này trong lớp hoặc cung cấp thêm tài nguyên với thông tin này. Theo nghiên cứu, điều này tạo cơ hội cho những người hướng dẫn nhận thức rõ hơn về các thực tiễn dựa trên bằng chứng nhằm thu hẹp khoảng cách về công bằng và điều chỉnh giáo trình phù hợp hơn với phương pháp sư phạm của họ.
Bạn có biện pháp can thiệp học tập nào có thể giúp người khác cải thiện sự thành công của học sinh không? Hãy cho chúng tôi biết về nó.
Phản hồi